Cao đẳng FPT Polytechnic chuẩn hóa kỹ năng, tay nghề cho sinh viên, đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng.
Có nhiều con đường cho các bạn lựa chọn khi đi xuất khẩu lao động Nhật Bản
Hiện tại để đi xuất khẩu các bạn có nhiều con đường để lựa chọn:
- Đi xuất khẩu lao động theo diện thực tập sinh.
- Đi xuất khẩu lao động theo diện kỹ sư.
- Đi xuất khẩu lao động theo diện visa kỹ năng đặc định.
Với các bạn sinh viên mới ra trường, có bằng cấp cao và trình độ chuyên môn tốt có thể đăng ký tham gia xuất khẩu lao động theo diện kỹ sư hoặc diện visa kỹ năng đặc định bởi nó có nhiều chế độ đãi ngộ tốt, và tất nhiên yêu cầu cũng cao hơn.
Những lợi ích khi các bạn đi xuất khẩu lao động Nhật Bản
Nhật Bản hiện đang là một thị trường xuất khẩu lao động tiềm năng, bởi đây là đất nước có nền kinh tế cũng như khoa học công nghệ hiện đại. Nếu đi xuất khẩu lao động các bạn sẽ nhận được khá nhiều lợi ích:
- Giải quyết vấn đề thất nghiệp:
Đầu tiên cũng chính là lý do các bạn đi xuất khẩu lao động đó chính là giúp các bạn giải quyết được tình trạng thất nghiệp, mở ra một con đường nghề nghiệp cho tương lai, Giúp các bạn có mục tiêu phấn đấu để thực hiện ước mơ của mình.
- Tích lũy được kinh nghiệm và vốn sống phong phú:
Được làm việc ở một đất nước có nền kinh tế phát triển vượt bậc nhất thế giới. Đây xem như là một cơ hội quý báu cho các bạn trẻ.
Ngoài ra con Người Nhật Bản còn nổi tiếng tác phong làm việc chuyên nghiệp, tính kỷ luật và rất nguyên tắc. Khi đến đây làm việc các bạn sẽ được học hỏi tất cả những điều này, những điều đó sẽ giúp các bạn trưởng thành hơn và dễ dàng hòa nhập với môi trường làm việc khi về nước.
- Tích lũy được một nguồn vốn cao:
Theo quy định của Chính Phủ Nhật Bản, mức lương của người lao động nước ngoài dao động từ 125.000-150.000 yên/tháng, tương đương với từ 25-30 triệu đồng. Đây chỉ là mức lương cơ
bản thôi, bởi vì với từng ngành nghề, từng vùng miền khác nhau sẽ có những mức lương khác nhau. Chưa kể đến các công việc ở Nhật thường có rất nhiều việc làm thêm, nếu như chăm chỉ các bạn sẽ nhận được mức lương khá cao.
Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho các bạn sau khi về nước có thể hỗ trợ gia đình và đầu tư cho bản thân một công việc ổn định.
- Được biết thêm một ngôn ngữ mới:
Ngoại ngữ luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế hiện nay. Khi đi xuất khẩu lao động Nhật Bản sẽ có được cơ hội được học tiếng Nhật từ đó sẽ giúp ích cho các bạn có nhiều cơ hội hơn trong quá trình làm việc tại doanh nghiệp mà các bạn đang làm.
- Là cơ hội để du lịch Nhật Bản:
Nhật Bản là một đất nước vô cùng phát triển và nổi tiếng trên thế giới, không chỉ về nền kinh tế mà còn về cả con người và phong cảnh văn hoá nơi đây.
Ngoài thời gian làm việc và học tiếng Nhật, các em có thể tranh thủ tham quan du lịch và khám phá các địa danh nổi tiếng của xứ sở hoa anh đào. Đây chắc chắn sẽ là những kỷ niệm đáng nhớ của cuộc đời .
Sinh viên ra trường thất nghiệp có nên đi xuất khẩu lao động Nhật Bản hay không?
Xuất khẩu lao động là một trong những con đường giải quyết tốt tình trạng thất nghiệp hiện nay. Có nhiều bạn vẫn e ngại và lo lắng phải xa quê, xa người thân, chấp nhận làm công việc trái ngành nghề với đồng lương ít ỏi.
Tuy nhiên chúng tôi khuyên các bạn vẫn nên mạnh dạng đăng ký tham gia xuất khẩu lao động, bởi nó mang nhiều lợi ích và tạo ra nhiều cơ hội cho các bạn có thể học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm hơn.
Bởi hầu hết các sinh viên mới ra trường vẫn còn rất yếu kém về năng lực lẫn kinh nghiệm thực tế. Bởi hầu hết các sinh viên mới ra trường vẫn còn rất yếu kém về năng lực lẫn kinh nghiệm thực tế. Xuất khẩu lao động được xem như là bước đệm giúp các bạn trưởng thành hơn, đồng thời cũng là cơ hội để các bạn có thể học hỏi thêm kinh nghiệm từ nền kinh tế tiên tiến nhất thế giới.
Làm thế nào để tham gia xuất khẩu lao động Nhật Bản
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều trung tâm hay các cơ sở chuyên đưa người lao động đi xuất khẩu, vì vậy để tránh khỏi tình trạng “tiền mất tật mang” các bạn phải lựa chọn kỹ càng, tìm ra một công ty uy tín và chất lượng để trao gửi niềm tin của mình.
Ngoài ra để tham gia xuất khẩu lao động các bạn phải đáp ứng được các điều kiện về ngoại hình, sức khoẻ, các điều kiện riêng thuộc về đơn hàng mà bạn đã chọn nữa.
Hiện tại để đi xuất khẩu lao động Nhật Bản cũng không còn khó khăn như trước nữa, bởi Nhật đang rất thiếu nhân lực nên cần tuyển nhiều lao động. Đây chính là cơ hội cho các bạn sinh viên có thể giải tìm được việc làm và đi học hỏi kinh nghiệm.
©2018 – 2019 - Bản quyền thuộc về Bảo hiểm xã hội Thành Phố Hải Phòng.
Ghi rõ nguồn 'Cổng thông tin điện tử BHXH Thành Phố Hải Phòng' hoặc 'haiphong.baohiemxahoi.gov.vn' khi phát hành lại thông tin.
Giấy phép số 195/GP-BC do Cục Báo chí - Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 2/05/2008
Thất nghiệp, dù được quan niệm theo nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng đều để lại những hậu quả khôn lường về kinh tế và xã hội cả giác độ cá nhân và toàn bộ nền kinh tế. Về mặt xã hội, thất nghiệp còn gây ra những tổn hại về mặt tinh thần và sức khỏe cho người lao động.
Do tác động của dịch Covid-19, theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), với hàng chục triệu doanh nghiệp ngừng sản xuất hoặc phá sản, toàn thế giới có thể có thêm 25 triệu lao động sẽ bị mất việc làm, phải hưởng trợ cấp thất nghiệp. Như vậy, với số thất nghiệp có sẵn 188 triệu người thì có thể có từ 193 đến 213 triệu người thất nghiệp tính đến cuối năm 2020. Cũng theo tính toán của ILO, các biện pháp phong tỏa một phần hoặc toàn diện của Chính phủ các nước nhằm ngăn chặn lây lan của Covid-19, nhưng đã ảnh hưởng tới 2,7 tỷ người lao động, tức 81% lực lượng lao động toàn cầu. Bản báo cáo nhanh mới được ILO công bố cho thấy số giờ làm việc trên thế giới sẽ giảm 6,7% trong quý II năm nay, tương đương 195 triệu người lao động làm việc toàn thời gian. Do tác động của Covid-19, các doanh nghiệp sẽ giảm nhu cầu sử dụng lao động, giảm giờ làm, kéo theo là nhiều triệu lao động bị thất nghiệp và bị mất đi nguồn thu nhập lớn. Ước tính, toàn thế giới, người lao động sẽ bị giảm thu nhập khoảng từ 860 tỷ USD đến 3,4 nghìn tỷ USD trong năm 2020. Khi thu nhập giảm, sức mua sẽ giảm, sẽ dẫn tới giảm tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, từ đó tác động ngược trở lại tới triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp và các nền kinh tế.
Vấn đề đặt ra với thực hiện BHTN
Dịch Covid-19 để lại hệ lụy nặng nề về mặt xã hội, thậm chí còn lâu dài hơn hệ lụy đối với kinh tế. Các nhà tâm lý học Mỹ đã phân tích mức độ căng thẳng về tinh thần của con người qua một số sự kiện thì thấy rằng mất việc làm gây ra căng thẳng thần kinh người lao động chỉ xếp thứ ba sau sự kiện vợ/chồng chết và bị đi tù. Thất nghiệp dẫn đến suy giảm rất lớn cả về thể chất lẫn tâm sinh lý, gây ra rất nhiều chứng bệnh xã hội như trầm cảm, nghiện hút, nghiện rượu,... từ đó gây ra các hậu quả xã hội khác như nạn bạo lực, bất mãn xã hội, tan vỡ cấu trúc dân số, cấu trúc gia đình... Nhiều người thất nghiệp đã phải tự kết thúc cuộc đời mình vì không thể chịu đựng được sự túng quẫn. Hậu quả, Nhà nước lại phải tăng các chi phí cho hệ thống an sinh xã hội quốc gia.
Như đã nêu trên, Covid-19 đã làm gia tăng tình trạng thất nghiệp, gia tăng người hưởng trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên, cần hiểu rõ bản chất của thất nghiệp thì mới ứng phó hiệu quả.Vậy thất nghiệp là gì và ai được gọi là người thất nghiệp? Vấn đề tưởng rất đơn giản nhưng lại được lý giải chưa được đồng nhất. Theo ILO “Thất nghiệp là việc ngừng thu nhập do không có khả năng tìm được một việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc” (ILO, 1952).
Trong các chỉ tiêu thống kê Việt Nam, khái niệm “người thất nghiệp”, được hiểu là những người từ đủ 15 tuổi trở lên mà trong thời kỳ tham chiếu hội đủ các yếu tố sau: (i) hiện không làm việc; (ii) đang tìm kiếm việc làm; (iii) sẵn sàng làm việc. Như vậy, người nào chưa hội đủ 03 yếu tố này, chưa chắc đã được coi là người thất nghiệp và lẽ đương nhiên họ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp (kể cả đã tham gia BHTN hay không).Khái niệm này của Việt Nam khá tương đồng với khái niệm của ILO về người thất nghiệp. Cũng theo cách hiểu trên, người thất nghiệp còn gồm những người hiện không có việc làm và sẵn sàng làm việc nhưng trong thời kỳ tham chiếu không tìm được việc do: - Đã chắc chắn có một công việc hoặc một hoạt động sản xuất kinh doanh để bắt đầu sau thời kỳ tham chiếu; - Phải tạm nghỉ (không được nhận tiền lương, tiền công hoặc không chắc chắn quay lại làm công việc cũ) do cơ sở bị thu hẹp hoặc ngừng sản xuất; - Đang trong thời gian nghỉ thời vụ; - Bận việc đột xuất của gia đình hoặc ốm đau tạm thời. Khi người lao động bị thất nghiệp, Nhà nước phải chi trả các trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên, chi trả trợ cấp thất nghiệp thế nào hiện có nhiều quan điểm khác nhau. Nếu Chính phủ thiết kế các mức trợ cấp cao dễ làm gia tăng thì tỷ lệ thất nghiệp và gia tăng thời gian người lao động đi tìm việc, do người lao động ỷ lại vào trợ cấp thất nghiệp, không tích cực tìm việc. Điều này lại làm thị trường lao động sẽ diễn biến phức tạp hơn, đồng thời làm tăng thêm “gánh nặng” của Quỹ BHXH và BHTN. Ngược lại, khi mức trợ cấp thất nghiệp thấp, người lao động tuy có tích cực đi tìm việc làm hơn, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm đi, nhưng những người thất nghiệp lại có nguy cơ rơi vào cảnh túng quẫn hơn do số tiền trợ cấp thất nghiệp không giải quyết được vấn đề kinh tế của bản thân và gia đình người lao động. Vì vậy, cân bằng được hai yếu tố Kinh tế và Xã hội luôn là bài toán nan giải đối với các nhà hoạch định chính sách. Để giảm bớt số người thất nghiệp và hạn chế hậu quả của thất nghiệp, các nhà kinh tế lao động đề ra hai nhóm giải pháp sau: - Nhóm giải pháp tích cực: Đó là các giải pháp nhằm tác động vào thị trường lao động, để tạo ra nhiều chỗ làm việc cho người lao động. Liên quan đến các giải pháp này là vấn đề đầu tư để phát triển kinh tế thông qua các dự án phát triển, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Có thể nói đầu tư là biện pháp tích cực nhất để tăng số chỗ làm việc trong nền kinh tế. Tuy nhiên để đầu tư tốt cần phải có môi trường đầu tư bao gồm hoàn thiện luật pháp, chính sách ưu đãi đầu tư,... Ngoài ra, để hấp thụ đầu tư, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực dài hạn, đặc biệt là vấn đề đào tạo, đào tạo lại để nâng cao chất lượng, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động. Khi người laođộng đã tích lũy được vốn (vốn con người), họ sẽ tích cực tham gia vào thị trường lao động. - Nhóm giải pháp thụ động: Đây là nhóm giải pháp hỗ trợ người lao động, nhằm tạo điều kiện cho người lao động tham gia được vào thị trường lao động hoặc có cơ hội quay trở lại thị trường lao động. BHTN là một trong các biện pháp hỗ trợ này. BHTN, một mặt hỗ trợ cho người lao động khi họ bị mất việc làm thông qua các trợ cấp thất nghiệp; mặt khác, BHTN tạo điều kiện và cơ hội cho người lao động quay trở lại thị trường lao động. Theo Luật Việc làm (2014), BHTN là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ BHTN. Bản chất của BHTN là hỗ trợ người lao động cả về tài chính và/hoặc các điều kiện vật chất khác trong thời gian mất việc làm nhằm tạo điều kiện cho họ nhanh trở lại với thị trường lao động. Phần bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm (thất nghiệp) được gọi là trợ cấp thất nghiệp. Theo Công ước 102 của ILO (1952), trợ cấp thất nghiệp là một hình thức BHXH nhằm đảm bảo chi trả một khoản trợ cấp tối thiểu trong một thời gian giới hạn cho những cá nhân bị thất nghiệp mà không do lỗi của họ, gây ra việc mất thu nhập mà họ và gia đình họ dựa vào đó. Như vậy, có thể thấy trợ cấp thất nghiệp chỉ là một trong những hỗ trợ (về tài chính) của BHTN và cũng chỉ những người có tham gia BHTN (đóng góp vào Quỹ BHTN) thì mới được hưởng trợ cấp thất nghiệp.Đây có thể nói là có sự “đan chéo” về mặt về mặt pháp lý. Ở một số nước, đôi khi trợ cấp thất nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật BHXH; trong khi đó ở một số nước khác, trong đó có Việt Nam, trợ cấp thất nghiệp lại được điều chỉnh trong Luật Việc làm. Vì vậy, trong thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động cần làm rõ trợ cấp thất nghiệp và tiền hỗ trợ thất nghiệp. Người lao động tham gia BHTN có thể được hưởng cả trợ cấp thất nghiệp và tiền hỗ trợ thất nghiệp, nhưng những người không/chưa tham gia BHTN (nhất là lao động tự làm, lao động ở khu vực phi chính thức) thì cần và sẽ được hưởng tiền hỗ trợ thất nghiệp từ các gói trợ giúp của nhà nước. Ở Việt Nam, song song với các gói hỗ trợ các doanh nghiệp để duy trì sản xuất, Chính phủ đã có gói hỗ trợ 62 ngàn tỷ để hỗ trợ các nhóm đối tượng bị ảnh hưởng do dịch Covid-19, trong đó có nhóm đối tượng bị thất nghiệp. Đây chính là những hỗ trợ, như đã nêu trên, là tiền hỗ trợ thất nghiệp mà người lao động đã hoặc chưa tham gia BHTN đều có thể được thụ hưởng. Tuy nhiên, theo chúng tôi, để hỗ trợ người lao động một cách bền vững khi có những biến cố như Covid-19 và những trường hợp tương tự, rất cần thiết xây dựng hệ thống BHTN vững mạnh. Ngoài trợ cấp thất nghiệp cần rất chú trọng hỗ trợ đào tạo lại, đào tạo nghề nghiệp mới và giới thiệu việc làm, nhằm tạo điều kiện cho người lao động sớm trở lại thị trường lao động. Việc này cần được làm thường xuyên, có tính hệ thống, tạo khả năng thích ứng cho người lao động chứ không chỉ là việc làm nhất thời. Về mặt pháp luật, cần khắc phục tình trạng “đan chéo” giữa hai luật như hiện nay. Trợ cấp thất nghiệp phải là một hình thức trợ cấp BHXH và nên được điều chỉnh bởi Luật BHXH và thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, có sự chia sẻ. BHTN chỉ nên tập trung vào những vẫn đề hỗ trợ thất nghiệp, trong đó đặc biệt là vấn đề đào tạo, đào tạo lại cho người lao động bị thất nghiệp. Mặt khác, cần có cơ chế chính sách để thúc đẩy đào tạo nghề tại chỗ (On the Job Training) tại doanh nghiệp để nhanh chóng đào tạo lại nghề cho doanh nghiệp, nhằm giữ chân lao động, giảm thiểu việc sa thải lao động trong thời kỳ này, đảm bảo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp sau những biến cố. Bên cạnh đó, về mặt quản lý, cần nâng cao chất lượng hệ thống đăng ký, theo dõi người thất nghiệp để vừa đảm bảo quyền lợi cho người hưởng trợ cấp, đồng thời ngăn chặn được tình trạng trục lợi bảo hiểm.
Tài liệu tham khảo 1. GSO (2020), Tình hình kinh tế - xã hội Quý I/2020. 2. ILO (2020), Báo cáo đánh giá sơ bộ “Covid-19 và thế giới việc làm: Tác động và giải pháp”, Genevo 3. Popp, A. (2017), Unemployment Insurance in a three State Model of the labor Market, Journal of Monetary Economics. 4. Mạc Văn Tiến (2005), An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực, NXB Lao động - Xã hội. 5. Samuelson (1991), Kinh tế học, Viện quan hệ quốc tế.
Nguồn: tapchibaohiemxahoi.gov.vn
Đây là thông tin đáng chú ý tại Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ 09 tháng đầu năm 2020 về Công tác phòng, chống đại dịch Covid-19, vấn đề lao động - việc làm (phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm, thực hiện chính sách BHXH, BHTN, tiền lương, quan hệ lao động, an toàn, vệ sinh lao động và quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam, phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao nguồn nhân lực); công tác chăm sóc người có công và trong các lĩnh vực xã hội về giảm nghèo bền vững, bảo trợ xã hội, bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, phòng, chống tệ nạn xã hội, về cải cách hành chính; thanh tra, kiểm tra và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, và về hợp tác quốc tế của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 trên mọi mặt đời sống xã hội
Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về Công tác phòng, chống đại dịch Covid-19, vấn đề lao động - việc làm (phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm, thực hiện chính sách BHXH, BHTN, tiền lương, quan hệ lao động, an toàn, vệ sinh lao động và quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam, phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao nguồn nhân lực); công tác chăm sóc người có công và trong các lĩnh vực xã hội về giảm nghèo bền vững, bảo trợ xã hội, bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, phòng, chống tệ nạn xã hội, về cải cách hành chính; thanh tra, kiểm tra và phòng, chống tham nhũng, lãng phí và về hợp tác quốc tế cho biết: 09 tháng đầu năm 2020, mọi mặt đời sống xã hội chịu nhiều ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, khiến tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp kỷ lục; tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi tăng cao do nhu cầu thị trường lao động sụt giảm.
Cụ thể, hiện lực lượng lao động của Việt Nam là 54,2 triệu người, giảm gần 1,3 triệu người so với cùng kỳ năm 2019; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đạt 73,8%, giảm 2,8 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; dự báo tháng 09/2020, Việt Nam có 30,8 triệu lao động bị ảnh hưởng tiêu cực bởi Covid-19 và có thể nhiều hơn vào cuối năm, trong đó, số người bị giảm thu nhập chiếm tới 57,3%; thu nhập bình quân tháng của người lao động trong Quý II/2020, giảm còn 5,2 triệu đồng (như vậy, giảm 525 nghìn đồng so với Quý I/2020 và 279 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2019); số người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tăng 33% so với cùng kỳ năm trước, bình quân mỗi tháng có 99 ngàn người, đến nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp, cao điểm tập trung vào tháng 05/2020 với 160.247 người, tháng 06/2020 với 137.508 người, số lượng người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tăng ở tất cả các tỉnh, thành phố, các vùng kinh tế.
Bên cạnh đó, đối tượng tham gia BHXH 09 tháng đầu năm sụt giảm so với cuối năm 2019, nhiều địa phương có tỷ lệ giải quyết BHXH một lần cao, ảnh hưởng tới khả năng nhận lương hưu của người lao động khi về già, tạo gánh nặng cho hệ thống An sinh xã hội trong tương lai. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn còn chồng chéo, phân tán, trùng lắp ngành, nghề đào tạo; chưa có cơ chế bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp sau sắp xếp ở các địa phương; việc đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ của các giáo dục nghề nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Đời sống đối tượng bảo trợ xã hội còn khó khăn, mức trợ cấp xã hội thấp, giảm nghèo chưa thực sự bền vững, chênh lệch giàu - nghèo, chênh lệch về tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường, việc làm giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Bộ phận lao động không có giao kết hợp đồng chính thức trong thị trường lao động lớn, hầu như chưa tiếp cận tới các định chế kết nối cung - cầu lao động như các trung tâm dịch vụ việc làm và không nằm trong hệ thống thông tin thị trường lao động sẵn có (khoảng 39,9 triệu lao động không có giao kết hợp đồng chính thức, bao gồm khoảng 19 triệu lao động trong khu vực phi chính thức phi nông nghiệp).
Một số việc cần làm trong những tháng cuối năm
Trong bối cảnh khó khăn, Việt Nam tập trung ưu tiên cho công tác phòng, chống dịch Covid-19 và áp dụng nhiều giải pháp để thực hiện nghiêm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhất là các giải pháp hỗ trợ người lao động, cung ứng lao động cho doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh; thực hiện tốt công tác bảo đảm An sinh xã hội. Đến nay, tình hình kinh tế - xã hội nói chung dần ổn định trở lại, sản xuất - kinh doanh được khôi phục, nhiều doanh nghiệp đăng ký mới hoặc trở lại hoạt động sau thời gian dài tạm ngừng do giãn cách xã hội, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động (theo thông tin từ Tổng cục Thống kê, ước tính từ tháng 05/2020 trở đi, trung bình mỗi tháng cả nước có từ 40.000 đến 50.000 lao động bị mất việc làm quay trở lại thị trường lao động).
Đại diện Thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội lưu ý: Công tác xây dựng pháp luật về An sinh xã hội nói chung còn chậm và khi thiết kế, đề xuất nội dung chính sách thường không đánh giá tổng kết chặt chẽ nên khi trình, thực hiện phát sinh nhiều vấn đề; phát triển sử dụng công nghệ thông tin còn hạn chế và tác động của đại dịch Covid-19 càng làm lộ rõ hạn chế này; năng suất lao động là vấn đề hết sức quan tâm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhưng lực lượng lao động chuyển sang việc làm không ổn định dẫn đến năng suất không cao; chính sách xã hội an sinh chưa đồng bộ, chưa thống nhất một mục tiêu nhiều dự án nhiều chương trình (ví dụ, 03 chương trình mục tiêu quốc gia hiện nay đều chỉ vì một mục tiêu tăng thu nhập); việc phát triển thị trường lao động đáp ứng xu hướng hội nhập cần hết sức quan tâm, kết nối cung - cầu lao động trong đó vấn đề dự báo là hết sức quan trọng. Trên cơ sở đánh giá tình hình, đề nghị cácbên có liên quan nghiên cứu tổng thể các chính sách An sinh xã hội, BHXH để bảo đảm công bằng xã hội; về giảm nghèo cần tính toán chuẩn nghèo đáp ứng yêu cầu kinh tế- xã hội và túi tiền người dân; nghiên cứu các mô hình quản lý, hệ thống chính sách xã hội và An sinh xã hội, an toàn vệ sinh lao động./.