Theo ước tính của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 9/2024 đạt khoảng 250 nghìn tấn, trị giá 424 triệu USD, tăng 19,2% về lượng và tăng 23% về trị giá so với tháng 8/2024, tăng 29,2% về lượng và tăng 68,4% về trị giá so với tháng 9/2023. Giá bình quân xuất khẩu cao su ở mức 1.697 USD/tấn, tăng 3,2% so với tháng 8/2024 và tăng 30,3% so với tháng 9/2023.
Giá lúa gạo hôm nay (27-9): Giá gạo được điều chỉnh giảm. Ảnh minh họa: thoibaotaichinhvietnam.vn
Cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang cho biết, giá lúa hôm nay ghi nhận không điều chỉnh so với ngày hôm qua, IR 50404 giá ở mức 7.300 - 7.500 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 ở mức giá 8.000 - 8.200 đồng/kg, lúa OM 5451 ở mức 7.600 - 7.900 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa OM 380 dao động 7.300 - 7.600 đồng/kg; lúa Nhật ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
Bên cạnh đó, thị trường nếp không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Nếp Long An IR 4625 (khô) 9.600 - 9.800 đồng/kg, ổn định so với ngày hôm qua. Nếp Long An 3 tháng (khô) 9.800 - 9.900 đồng/kg, đi ngang so với ngày hôm qua.
Trên thị trường gạo, giá gạo ghi nhận có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Hiện giá gạo nguyên liệu IR 504 Hè Thu xuống mức 10.450 - 10.600 đồng/kg, giảm 50 - 100 đồng/kg. Trong khi đó, gạo thành phẩm IR 504 ở mức 12.800 - 13.000 đồng/kg, giảm 100 - 200 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ 6.000 - 9.700 đồng/kg. Hiện, giá tấm OM 5451 ở mức 9.600 - 9.700 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg; giá cám khô ở mức 6.000 - 6.050 đồng/kg, tăng 50 - 100 đồng/kg.
Tại các chợ lẻ, giá gạo ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 28.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng Hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; thơm Thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương Lài 18.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan (Trung Quốc) 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.000 - 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 21.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam không có điều chỉnh so với ngày hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ở mức 454 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% ở mức 565 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 535 USD/tấn.
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Kinh tế xem các tin, bài liên quan.
Lãi suất vay mua nhà tháng 9
Theo khảo sát của Tiền Phong, trong tháng 9, nhóm ngân hàng quốc doanh (Agribank, Vietcombank, Vietinbank và BIDV) đang áp dụng các gói vay mua nhà với lãi suất dao động từ 5,2 - 8,5%/năm.
Tại Agribank, lãi suất vay trung dài hạn áp dụng cho các khoản vay kinh doanh bất động sản như sau: 6%/năm cố định 6 tháng đầu; 6,5%/năm cố định 12 tháng đầu (áp dụng với khoản vay có thời hạn tối thiểu 3 năm); hoặc 7%/năm cố định 24 tháng đầu (áp dụng với khoản vay có thời hạn tối thiểu 5 năm).
Đối với Vietcombank, gói lãi suất vay mua nhà đất là 5,7%/năm cố định trong 12 tháng đầu tiên; 6,5%/năm cố định trong 2 năm đầu tiên; 8,5%/năm cố định trong 3 năm đầu tiên. Sau thời gian ưu đãi = lãi suất huy động 12 tháng trả sau của Vietcombank + 3,5%, hiện tại rơi vào khoảng 9%/năm.
Trong tháng 9, nhóm ngân hàng quốc doanh đang áp dụng các gói vay mua nhà với lãi suất dao động từ 5,2 - 8,5%/năm.
Ở VietinBank, lãi suất vay mua xây dựng , sửa chữa nhà ở cụ thể là: Cố định 6,0%/năm trong 12 tháng đầu; cố định 6,2%/năm trong 18 tháng, cố định 6,7%/năm trong 24 tháng đầu, hoặc cố định 8,2%/năm trong 36 tháng đầu. Biên độ lãi suất sau ưu đãi: 4,5%, hiện tại lãi suất thả nổi của Vietinbank rơi vào khoảng 9%/năm.
Còn BIDV, lãi suất vay mua nhà Hà Nội và TP.HCM là 5,2%/năm cố định 6 tháng đầu, 5,5%/năm cố định trong 12 tháng đầu (áp dụng cho khoản vay tối thiểu 36 tháng); hoặc 6%/năm trong 18 hoặc 24 tháng đầu (thời gian vay tối thiểu 60 tháng).
BIDV ở các địa phương khác, thì áp dụng lãi suất vay mua nhà là 6%/năm trong 12 tháng đầu hoặc 24 tháng đầu (áp dụng cho khoản vay tối thiểu 36 tháng); hoặc 6,5%/năm trong 18 tháng hoặc 24 tháng đầu (áp dụng cho khoản vay tối thiểu 60 tháng). Sau ưu đãi sẽ tính lãi suất thả nổi = lãi suất huy động 12 tháng + biên độ 3,5%. Hiện lãi suất thả nổi của BIDV vào khoảng 8,2%/năm. Phí trả nợ trước hạn: năm đầu tiên 1%, năm thứ 2 và thứ 3 là 0,5%, từ năm thứ 3 miễn phí trả nợ.
Đối với nhóm ngân hàng thương mại cổ phần, lãi suất vay mua nhà dao động từ 0 – 9,5%, tùy thời gian.
Tiêu biểu, tại TPBank, các gói ưu đãi lãi suất vay mua/ xây sửa nhà tại TPBank đang áp dụng như sau: 0% cố định trong 3 tháng đầu; 6,6% cố định trong 12 tháng đầu; 7,6% cố định trong 24 tháng đầu; 8,6% cố định trong 36 tháng đầu. Lãi suất thả nổi = Lãi suất cơ sở KHCN kỳ hạn 3 tháng + 3,3%, hiện tại rơi vào khoảng 11,2%.
ACB áp dụng lãi suất vay trung dài hạn: 9,5%/năm cố định 05 năm; 7,5%/năm cố định 02 năm; 7,0%/năm cố định 01 năm. Khách hàng được trả trước hạn 100 triệu/1 tháng mà không bị phạt. Hết thời gian ưu đãi sẽ thả nổi lãi suất, được tính bằng lãi suất cơ sở + biên độ 3%, rơi vào khoảng 11-11,7%/năm. Với các khoản vay ngắn hạn (phục vụ SXKD): 6,7%/năm cố định 03 tháng; hoặc 7,2%/năm cố định 06 tháng.
Đối với nhóm các ngân hàng nước ngoài (Woori Bank, Shinhan Bank, Standard Chartered, Hong Leong Bank, Public Bank Vietnam ), trong tháng 9, lãi suất ưu đãi cho vay mua nhà tháng 9 trong khoảng 5,5 – 7%, tùy từng ngân hàng .
Lãi suất vay mua nhà ở xã hội gói 120.000 tỷ đồng vẫn cao
Theo Ngân hàng Nhà nước , tính đến cuối tháng 8/2024, lãi suất áp dụng đối với Chương trình 120.000 tỷ đồng đã giảm 1%/năm so với kỳ 1/1/2024-30/06/2024 và giảm gần 2%/năm so với thời điểm bắt đầu triển khai Chương trình.
Trong đó, đối tượng cho vay là chủ đầu tư dự án và khách hàng mua nhà tại các dự án đó. Điều kiện cho vay là các dự án cần thuộc danh mục được Bộ Xây dựng công bố; đồng thời, bên vay thuộc diện được hưởng chính sách hỗ trợ và đáp ứng các điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật.
Lãi suất cho vay mua nhà ở xã hội của gói 120.000 tỷ đồng, không hề thấp hơn mặt bằng lãi suất cho vay mà nhiều ngân hàng thương mại đang triển khai.
Lãi suất áp dụng là 7%/năm đối với chủ đầu tư, kéo dài trong 3 năm kể từ ngày giải ngân. Lãi suất 6,5%/năm đối với người mua nhà, kéo dài trong 5 năm kể từ ngày giải ngân.
Theo các chuyên gia, lãi suất vay theo gói 120.000 tỷ đã giảm 1%/năm so với 6 tháng đầu năm nay và giảm gần 2%/năm so với thời điểm bắt đầu triển khai. Tuy nhiên, mức lãi suất 7%/năm dành cho doanh nghiệp và 6,5%/năm cho người mua nhà không hề thấp hơn mặt bằng lãi suất cho vay mà nhiều ngân hàng thương mại đang triển khai.
Thậm chí, mức lãi suất này còn cao hơn so với lãi suất ưu đãi cho vay mua nhà ở xã hội, hiện đang ở mức 4,8-5%/năm (mức lãi suất này áp dụng đến ngày 31/12/2024).
AsemconnectVietnam - Ngày 16/10/2024, Ủy ban châu Âu (EC) chính thức thông báo gia hạn thực thi Luật chống phá rừng (EUDR) thêm 12 tháng để các bên liên quan có thêm thời gian chuẩn bị. Như vậy, các nhà điều hành và thương nhân lớn sẽ bắt đầu thực thi EUDR từ 30/12/2025 còn các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ sẽ áp dụng từ 30/6/2026.
Điều này đã khiến các hãng rang xay tại châu Âu tạm thời ngưng việc ồ ạt nhập hàng (đảm bảo nguồn cung trước khi không thể nhập cà phê do quy định mới được thi hành), khiến lượng mua sụt giảm mạnh trong tháng này.
Trước đó, các nhà nhập khẩu từ châu Âu – thị trường số 1 của cà phê Việt Nam đã tăng cường nhập khẩu do lo ngại sau thời điểm 30/12/2024 có nhiều lô hàng không đáp ứng EUDR kéo theo giá cà phê tăng. Ngoài ra, các lô cà phê thí điểm giấy tờ theo tiêu chuẩn EUDR còn được các nhà nhập khẩu trả giá cao hơn nên khi EUDR bị hoãn, nhà mua hàng đã đàm phán lại giá.
Kể từ khi EU có ý định hoãn việc thực hiện EUDR trong tháng 9/2024, xuất khẩu cà phê vào EU đã giảm mạnh.
Theo tính toán từ số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong tháng 9/2024, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang EU đạt 19.000 tấn, trị giá hơn 102,8 triệu USD; giảm 40% về lượng và giảm 35% về giá trị so với tháng trước đó; song so với cùng kỳ năm ngoái vẫn tăng 28% về lượng và tăng 135,6% về giá trị. Tính chung 9 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang EU đạt khoảng 440 nghìn tấn, trị giá 1.641,8 triệu USD, giảm 8% về lượng song tăng 48% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Tỷ trọng xuất khẩu hàng cà phê của Việt Nam sang EU chiếm 36% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước trong tháng 9 và chiếm 36% trong 9 tháng đầu năm.
Kim ngạch xuất khẩu cà phê sang EU và tỷ trọng trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam ra thế giới 9 tháng đầu năm 2024
Tỷ trọng của EU trong tổng XK dệt may của VN (%)
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Hải quan Việt Nam
Giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam sang EU trong tháng 9/2024 đạt 5.585,8 USD/tấn, tăng 5,8% so với tháng 8/2024 và tăng 69% so với tháng 9/2023. Trong 9 tháng đầu năm, mức giá xuất khẩu bình quân đạt 3.896 USD/tấn, tăng 56% so với cùng kỳ 2023.
So với tháng 8/2020, giá cà phê hiện đã tăng gấp hơn 3 lần.
Việt Nam đã chính thức bước vào thu hoạch cà phê từ tháng 10/2024 và sẽ thu hoạch rộ trong tháng 11/2024 và tháng 12/2024, một số vùng kéo dài đến tháng 1/2025. Việt Nam vào mùa, bổ sung nguồn cung cà phê cho thị trường cũng là một trong những yếu tố khiến giá cà phê hạ nhiệt.
Trong các nguồn cung cà phê chính trên thế giới, chỉ có Việt Nam là mất mùa niên vụ qua với mức sụt giảm hơn 2 con số. Ngoài ra, dự báo niên vụ tới sản lượng cà phê của Việt Nam vẫn tiếp tục giảm do ảnh hưởng khô hạn đầu năm và diện tích trồng thu hẹp khi nông dân chọn các cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Theo Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (VICOFA), sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2023-2024 ước giảm 20% so với niên vụ trước, xuống còn 1,47 triệu tấn, thấp nhất trong 4 năm, đặt áp lực lên nguồn cung Robusta trên thị trường thế giới.
Từ ngày 1/10/2024, Việt Nam đã vào vụ cà phê mới, có rất nhiều nhà vườn, nhiều đại lý thậm chí nhà xuất khẩu đều bán được ít hàng. Nguyên nhân chính là do giao dịch trên thị trường trong nước trầm lắng do giá cà phê trên sàn kỳ hạn giảm quá nhanh (tính từ ngày 1/10/2024 - 25/10/2024 giảm khoảng 800 USD/tấn). Giá cà phê trên sàn kỳ hạn giảm nhanh quá đã ảnh hưởng đến giá cà phê trong nước, do vậy nhu cầu mua chững lại. Thứ hai, thời gian vừa qua vận chuyển cà phê Việt Nam qua châu Âu ( nơi nhập khẩu cà phê Robusta của Việt Nam nhiều nhất) bị chặn ở Biển Đỏ. Thứ ba, quan trọng hơn là Quy định chống phá rừng (EUDR) của EU. Việc hoãn chưa áp dụng EUDR khiến các nhà nhập khẩu cà phê sau khi nhập ồ ạt, nay lại tích cực bán ra khiến gía cà phê bị giảm. Thứ tư, các quỹ đầu cơ bán ra do USD tăng giá.
Cơ cấu thị trường thành viên theo kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam
Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong tháng 9/2024, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang hầu hết các thị trường EU giảm mạnh. Xuất khẩu cà phê sang Đức giảm 81% so với tháng liền trước. Xuất khẩu sang Thụy Điển giảm 90%, xuất sang Cộng hòa Séc và Romania giảm 80% so với tháng liền trước.
Tây Ba Nha nổi lên là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam trong tháng này. Xuất khẩu cà phê sang Tây Ba Nha đạt 34,1 triệu USD (tương đương 5,7 nghìn tấn), tăng 5,5% về giá trị và tăng 6% về khối lượng so với tháng 8/2024 và tăng 83,28% về khối lượng và 179,62% về giá trị so với cùng kỳ 2023, chiếm tỷ trọng 33% trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sang thị trường EU. Giá xuất khẩu đạt trung bình 5909,8 USD/tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 9 tháng đầu năm nay, xuất khẩu cà phê sang nước này đạt 83,236 nghìn tấn, trị giá đạt 339,3 triệu USD, tăng 20,48% về lượng và tăng 88,15% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá cà phê xuất trong thời gian này đạt trung bình 4076 USD/tấn, tăng 56% so với cùng kỳ năm trước.
Đứng thứ hai là Italya với 22,1 triệu USD (tương đương 4,3 nghìn tấn), giảm 38% về giá trị và tăng 46% về khối lượng so với tháng 8/2024 và tăng 10% về khối lượng và 125,15% về giá trị so với cùng kỳ 2023, chiếm tỷ trọng 21% trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sang thị trường EU. Giá xuất khẩu đạt trung bình 5136 USD/tấn, tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 9 tháng đầu năm nay, xuất khẩu cà phê sang nước này đạt 103,392 nghìn tấn, trị giá đạt 353,4 triệu USD, giảm 12,27% về lượng và tăng 35% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá cà phê xuất trong thời gian này đạt trung bình 3418 USD/tấn, tăng 54% so với cùng kỳ năm trước.
Đứng thứ ba là Ba Lan với 8,95 triệu USD (tương đương 1 nghìn tấn), tăng 52% về giá trị và tăng 46% về khối lượng so với tháng 8/2024 và tăng 51% về khối lượng và 52% về giá trị so với cùng kỳ 2023, chiếm tỷ trọng 9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sang thị trường EU. Giá xuất khẩu đạt trung bình 8798 USD/tấn, tăng 0,82% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 9 tháng đầu năm nay, xuất khẩu cà phê sang nước này đạt 9,119 nghìn tấn, trị giá đạt 57,6 triệu USD, giảm 21% về lượng nhưng tăng 50% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá cà phê xuất trong thời gian này đạt trung bình 6326 USD/tấn, tăng 90% so với cùng kỳ năm trước.
Đáng chú ý, xuất khẩu cà phê sang riêng thị trường Ba Lan tăng mạnh 53% với giá xuất cao kỷ lục tăng 84% so với cùng kỳ năm ngoái.